Kỷ nguyên mới cho việc nghiên cứu và phát triển công nghiệp ở Nhật Bản (Phần 1)
Các bộ phận nghiên cứu và phát triển công nghiệp của Nhật Bản không còn đạt được hiệu suất vượt trội so với thế giới. Ở cấp độ vĩ mô, bằng chứng đã rõ ràng trong một thời gian. Quốc gia này đã tụt hạng trong bảng xếp hạng toàn cầu về tăng trưởng năng suất và tạo ra tài sản trí tuệ, ngay cả khi chi tiêu cho R&D vẫn ở mức cao. Và ở cấp độ vi mô, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các nhà lãnh đạo R&D ở Nhật Bản đã mất niềm tin vào khả năng của các tổ chức của họ trong việc đáp ứng những thách thức mà họ phải đối mặt.
Phần thưởng có thể rất đáng kể. Ví dụ: kinh nghiệm của chúng tôi ở những nơi khác trên thế giới khiến chúng tôi tin rằng việc áp dụng các phương pháp tốt nhất trong phân khúc có thể nâng cao năng suất R&D lên 30%. Trong khu vực tư nhân của Nhật Bản, điều đó có thể giải phóng ¥ 1 đến 2 nghìn tỷ yên (khoảng 9 đến 18 tỷ đô la) mỗi năm để tái đầu tư vào các dự án nghiên cứu cơ bản, đổi mới hoặc phát triển sản phẩm mới.
Những thách thức về R&D trong một thế giới đang thay đổi
Trong nhiều thập kỷ, Nhật Bản đã tạo dựng được danh tiếng mạnh mẽ trong việc cung cấp các tiến bộ công nghệ và các sản phẩm tạo ra sự khác biệt cho cuộc sống của con người. Ô tô, xe máy, thiết bị điện tử, thiết bị y tế, máy ảnh, v.v. của họ đã xác định danh mục qua nhiều thế hệ.
Các nhà sản xuất của quốc gia này tiếp tục hoạt động tốt trong nhiều lĩnh vực phát triển sản phẩm, đạt được chất lượng cực cao, thường là thông qua các cải tiến nhất quán, gia tăng đã giúp các công ty hàng đầu duy trì lợi thế cạnh tranh trong thời gian dài. Văn hóa doanh nghiệp đề cao việc lập kế hoạch cẩn thận, xây dựng sự đồng thuận và chú ý đến từng chi tiết cũng đã giúp nhiều công ty Nhật Bản quản lý sự phức tạp rất hiệu quả - đặc biệt là đối với các sản phẩm tích hợp nhiều thành phần và hệ thống với giao diện và phụ thuộc phức tạp, như trong lĩnh vực ô tô.
Tuy nhiên, thế giới đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Các công nghệ trước đây chỉ là từ thông dụng — kỹ thuật số, phân tích nâng cao, rô bốt, thị giác máy, sản xuất phụ gia — đang thay đổi ngành này sang ngành khác. Ở mọi nơi bạn nhìn, các công ty đang cung cấp các loại sản phẩm và dịch vụ mới, tìm cách mới để tương tác với khách hàng của họ và thay đổi cách họ hoạt động trong nội bộ.
Nắm bắt các cơ hội mang lại là kế hoạch trọng tâm trong chiến lược thúc đẩy tăng trưởng của chính phủ Nhật Bản, đặc biệt với việc thúc đẩy một “Xã hội 5.0” trong tương lai, xây dựng dựa trên trí tuệ nhân tạo, cảm biến, tự động hóa và các công nghệ khác để thúc đẩy sự hội tụ của vật lý và mạng các khoảng trắng. Ngoài ra, chương trình “Abenomics 2.0” của Thủ tướng Shinzo Abe, được thông qua vào năm 2017, nhằm “thúc đẩy nỗ lực của chúng tôi hướng tới cải cách toàn diện trong ba lĩnh vực quan trọng: 1) thúc đẩy năng suất, 2) thúc đẩy đổi mới và thương mại, và 3) tiếp thêm năng lượng cho các hoạt động của doanh nghiệp. ” Tài liệu chính sách của chính phủ trích dẫn “Việc áp dụng những đổi mới được tạo ra từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên tất cả các ngành và mọi khía cạnh của cuộc sống hàng ngày” là động lực chính thúc đẩy nhu cầu và đầu tư trong những năm tới.
Trong môi trường năng động vô cùng này, các phương pháp tiếp cận đã từng giúp các công ty Nhật Bản đạt được vị trí hàng đầu có thể không còn đủ. Các giám đốc điều hành Nhật Bản đã cảm nhận được sự thay đổi trong một thời gian: ví dụ, trong một cuộc khảo sát toàn cầu năm 2016 mà các đồng nghiệp của chúng tôi thực hiện về các giám đốc điều hành có trách nhiệm nghiên cứu và phát triển sản phẩm, chỉ 14% người Nhật Bản được hỏi cho biết họ cảm thấy tổ chức của họ đã chuẩn bị đầy đủ cho tác động của megatrends định hình lại sự phát triển sản phẩm. Gần đây hơn, một cuộc khảo sát của McKinsey về thái độ đối với các công nghệ Công nghiệp 4.0 cho thấy các giám đốc điều hành Nhật Bản kém lạc quan hơn so với các đối tác của họ ở những nơi khác trên thế giới về tiềm năng của những cách tiếp cận mới này trong việc cải thiện thời gian tiếp cận thị trường, tính linh hoạt trong sản xuất hoặc sự nhanh nhạy của tổ chức.
Hình 1: Nghiên cứu cho thấy các nhà quản lý người Nhật kém khả quan về tiềm năng của cách mạng công nghiệp 4.0 trong việc tăng hiệu suất và năng suất.
Khoảng cách hiệu suất R&D
Các công ty Nhật Bản hiểu được tầm quan trọng vô cùng của việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Theo Ngân hàng Thế giới, ở mức hơn 3% GDP, mức chi tiêu cho R&D hàng năm của Nhật Bản là một trong những mức cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, trong hơn hai thập kỷ qua, đất nước này đã phải vật lộn để biến nỗ lực đó thành kết quả hữu hình. Năm 2000, các công ty và tổ chức nghiên cứu của Nhật Bản chiếm hơn 30% số bằng sáng chế được trao hàng năm (Hình 2). Thị phần tổng thể của đất nước hiện đã giảm xuống còn 10%. Theo ngành, bức tranh có nhiều sắc thái hơn một chút. Chẳng hạn, đất nước này vẫn giữ vị trí dẫn đầu về bằng sáng chế trong công nghệ bán dẫn và tỷ lệ các bằng sáng chế về công nghệ y tế đã tăng nhẹ. Tuy nhiên, nó đã bị các nước khác - đặc biệt là Trung Quốc - vượt qua trong một số lĩnh vực chính, bao gồm công nghệ nghe nhìn, máy tính và viễn thông.
Hình 2: Từ năm 2000, số lượng bằng sáng chế mới của Nhật giảm
Đầu tư hiệu quả cho R&D được coi là một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng năng suất, nhưng mối quan hệ giữa chi tiêu cho R&D và năng suất ở các công ty Nhật Bản đã yếu đi. Kể từ năm 1996, tăng trưởng tổng năng suất ở Nhật Bản (thước đo năng suất tính đến sự khác biệt về cả đầu vào lao động và vốn) đã tụt hậu so với các nước công nghiệp chính của nước này (Hình 3).
Hình 3: Dù đầu tư mạnh vào R&D, các công ty Nhật cho thấy năng suất tăng hạn chế
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ), trong khi các công ty Mỹ có mức chi tiêu R&D cao nhất đạt được tốc độ tăng trưởng năng suất nhanh hơn so với các đối thủ của họ, thì các công ty Nhật Bản lại không nhận thấy mức hoàn vốn tương tự cho các khoản đầu tư vào R&D của họ. Để giải thích lý do cho khoảng cách này, các tác giả của nghiên cứu BoJ chỉ ra ba yếu tố phổ biến đối với nhiều hoạt động R&D của Nhật Bản: tập trung vào cải tiến gia tăng việc tạo ra các sản phẩm sáng tạo, việc tạo ra các sản phẩm không đáp ứng một cách thích hợp nhu cầu của khách hàng và mức độ đổi mới hợp tác thấp với các công ty và tổ chức nghiên cứu bên ngoài.
(Theo McKinsey, VJCC lược dịch)
BÀI VIẾT CÙNG DANH MỤC
Khóa học nổi bật
-
Kiểm soát cảm xúc trong công tác quản trị
Thời gian : 2 ngàyGiảng viên : Bà Trương Ngọc Mai Hương
-
Quản trị tài chính cho lãnh đạo doanh nghiệp
Thời gian : 2 ngàyGiảng viên : TS. Nguyễn Tấn Bình
-
QC GEMBA – HOẠT ĐỘNG QUÀN LÝ CHẤT LƯỢNG
Thời gian : 3 ngàyGiảng viên : Ông Trần Hữu Anh Tuấn
-
Chương trình Cử nhân Kinh doanh Số - DB
Thời gian : 4 nămGiảng viên : ĐH Ngoại thương và các trường ĐH Nhật Bản
Các khóa học sắp diễn ra
-
KHÓA HỌC LUYỆN THI NĂNG LỰC TIẾNG NHẬT JLPT N3 CẤP TỐC tại TP. HCM 4/2024
Thời gian : 09/4/2024 - 29/6/2024 (33 buổi/66 giờ)Giảng viên : Cô Nguyễn Thuỳ Tiên, Cô Trần Bích Thuỷ
-
KHÓA HỌC LUYỆN THI NĂNG LỰC TIẾNG NHẬT JLPT N2 Taisaku (LỚP ĐÊM) tại TP. HCM 4/2024
Thời gian : 15/4/2024 - 28/6/2024 (30 buổi/60 giờ)Giảng viên : Thầy Trần Hữu Trí, Thầy Võ Chính Trung, Cô Nguyễn Thuỳ Tiên, Cô Nguyễn Thị Thanh Thảo
-
KHÓA HỌC LUYỆN THI NĂNG LỰC TIẾNG NHẬT THƯƠNG MẠI (BJT) tại TP. HCM Tháng 4/2024
Thời gian : 13/4/2024 - 26/5/2024 (14 buổi/42 giờ)Giảng viên : ThS. Võ Thị Mai Hương
-
KHÓA TIẾNG NHẬT SƠ CẤP N4 THÁNG 2/2024
Thời gian : Từ 28/2 /2024 đến 14/8/2024Giảng viên : Cô Hà Thị Hường, Cô Nguyễn Quỳnh Trang, Cô Kojima Nami, thầy Kodama Tomoharu